PjE
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

hình ảnh người nông dân

Go down

hình ảnh người nông dân Empty hình ảnh người nông dân

Bài gửi  Admin Fri Nov 11, 2011 11:03 am

I. Mở bài:

Thế kỷ XIX là thời ký lịch sử “đau thương nhưng vĩ đại” của dân tộc ta . Ở Thế kỷ ấy , có một nhà thơ mù nhưng tròng lòng sáng như gương ,người đã thấy kết những gì mà bao nhiêu người mắt sáng không nhận ra .Người đó là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu .Và, trong văn họ Việt Nam ,cho đến Nguyễn Đình Chiểu ,chưa có một hình tượng nhân dân nào chân thực và cảm động hơn người nghĩa sĩ tử trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của ông.

II. Thân bài:

Nói đúng ra ,trước Nguyễn Đình Chiểu ,con người bình thường cũng xuất hiện trong văn chương Việt Nam .Tuy nhiên , đó hoặc là những ngư phủ ,tiều phu hình bóng thấp thoáng ,khi xa khi gần trong thơ bà Huyện Thanh Quan ,hoặc là đám đông lố nhố ,hằng ngày là cục đất củ khoai ,khi có dịp trở nên những “kiêu binh” lỗ mãng trong Hoàng Lê nhất thống chí.

Ngưòi nông dân xuất hiện trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn khác hẳn .Họl thật sự là những người bình thường ,là “dân áp , dân lân” , “ngoài cật có một manh áo vải” .Bản tính lại hiền lành ,chất phác ,quanh năm duốt tháng “côi cút làm ăn ,toan lo nghèo khó” .Bên trong luỹ tre làng, họ “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”,thành thục với nghề nông trang: Việc cuốc cầy ,việc bừa ,việc cấy , tay vốn làm quen.Nói như nhà thơ Thanh Thảo sau này ,họ lấm láp sình lầy ấy đã bước vào thơ Đồ Chiểu. Đành rằng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có tấm lòng sáng để phát hiện ra họ ,nhưng trước hết bởi dù không áo mão cân đai phẩm hàm văn võ / họ để lại những vệt bùn làm vinh dự cho thơ. Đó chính là tấm lòng yêu nước ,trương nghĩa của người nông dân .

Khi nghe tin quân giặc đến ,dù là dân thường nhưng những người nông dân lòng đầy sốt ruột .Trong xã hội xưa ,những chuyện quốc gia đại sự trước hết là việc của quan .Dân nghe theo quan mà làm dân .Dân nhìn thấy quan mà theo >Vì thế ,họ trông chờ tin quan như trời hạn trông mưa .Mắt còn trông đợi nhưng lòng thì đã rõ:

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp ,muốn tới ăn gan;ngày xem ống khói chạy đen sì,muốn ra cắn cổ.

Lòng yêu nước không độc quyền của ai .Huống chi ,với những người nông dân chân chất ,khi “mùi tinh chiến vấy vá đã ba năm” thì họ “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ” .vì thế ,dù là dân ấp ,dân lân ,trong tay chỉ còn một tầm vông ,họ đã sẵn sàng xả thân vì nghĩa cả:

Hoả mai đánh bằng rơm con cúi , cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay,cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Chi nhọc nhằn quan quản gióng trống kỳ ,trống giục , đạp rào lướt tới ,coi giặc như không;nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ , đạn to ,xô cửa xông vào ,liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang ,người chém ngựơc ,làm cho mã tà ,ma ní hồn kinh;bọn hè trước ,lũ ó sau ,trối kệ tàu thiếc ,tàu đồng đung nổ.

Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu nước với kẻ thù là cuộc đối đầu không cân sức .Họ thất thế ngay từ ban đầu khi tựgiác đúng lên ,không có ai tổ chức ( ai đòi ,ai bắt ) ,chẳng có binh thư ,binh pháp .còn quân giặc thì chuẩn bị bài bản ,có quy mô , quy củ.Họ thất thế khi xing trận mà ngoài cật có một manh áo vải ,trong tay cầm ngon tầm vông ,còn kẻ thù lại có tàu sắt tàu đồng , đạn nhỏ , đạn to.Song chí căm thù ,lòng yêu nước đã khiến những người nông dân trối kệ tàu thiếc,tàu đồng súng nổ ,liều mình như chẳng có ai.Ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành động ấy. Nhưng nghĩa sĩ nông dân càng biết rõ điều đó:

Một giấc sa trường rằng chữ hạnh ,nào hay da ngựa bọc thây;trăm năm âm phủ ấy chữ quy,nào đợi gươm hùm trao mộ.

Những nghĩa sĩ nông dân trở thành “những anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang” ( Phạm Văn Đồng ) .Hình tượng người nghĩa sĩ chân đất lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam đã mang hình dáng đầy bi tráng.Nó như một tượng đài sừng sững tạc vào không gian lẫn với thời gian để nói với muôn đời rằng:Thác mà trả nước non rồi nợ ,danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ ,tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.

III. Kết bài:

Sự gắn bó ,lòng yêu thương và cảm phục đã khiến Nguyễn Đình Chiểu ghi tạc vào thơ văn mình hình tượng ngưòi nghĩa sĩ Cần Giuộc thật bi tráng .Hình tượng ấy sức nặng của một thời đại “nước mắt anh hùng lau chẳng ráo”và tấm lòng yêu thương bi thiết của nhà thơ mù đất Đồng Nai – Gia Định .Những người anh hùng “sống đánh giặc , thác cũng đánh giặc”.Còn nhà thơ của họ đã dựng lại tượng đài ấy “nghìn năm” trong ký ức tâm hồn của người đời bằng văn chương.
===============================================

Dân tộc Việt Nam đã trải qua bốn nghìn năm với bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, người nông dân cũng đứng lên chống giắc. Trong văn học, phải đến thế kỉ XIX khi Nguyễn Đình Chiểu - một nhà nho yêu nước dùng con mắg yêu thương và kính phục để viết nên “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì hình ảnh người nông dân mới thực sự xuất hiện. Đó là hình tượng đẹp, rất đỗi chân thực và đầy chất bi tráng, vừa hào hùng, vừa đau thương trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do của đất nước.

Những người nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung… Họ chỉ là những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu của đất, bình dị và lam lũ. Nhưng họ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại:

Hỡi ôi!

Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ

Họ đâu đã quen nghi tiếng súng. Âm thanh ấy đã phá tan cuộc sống bình lặng của họ. Một cuộc sống từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một cuộc sống chật vật với những lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã làm họ thật nhỏ bé suốt ngày “cui cút làm ăn”.. Chỉ một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn không lối thoát của người dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ, bắt đầu với cui cút, vật lộn làm ăn để cuối cùng vẫn kết thúc trong nghèo khó. Đằng sau luỹ tre làng ấy, họ biết sao được những “cung ngựa”, “trường nhung”.. trong cái nhìn của họ chỉ có “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đến việc cuốc, việc cày, bừa, khiên đã quá quen thuộc thì giờ tập khiên, tập súng.. thật lạ lẫm.

Những tưởng họ mãi cam chịu như thế. Nhưng không, khi quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, chúng đang giày xéo lên từng mảnh ruống, từng đám đất quê hương ruột thịt của họ. Giờ đây, trong những “lo toan” không chỉ có đói nghèo mà còn là những thấp thỏm, lo âu:

“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa…”

Thấy “mùi tinh chiên vấy vá” không thể chống mắt đứng nhìn, không thể ngồi yên mà đợi. Triều đình đã “bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng nàn ở họ. Bọn xâm lăng kia đã cướp đi những gì máu thịt của họ, chúng phá vỡ giấc bình yêu nơi thôn quê, làm sao không căm cho được. Nỗi uất hận đển tột cùng ấy đã biến những con người nhỏ bé tầm thường thành chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức. Lòng yêu nước đã biến thành lòng căm thù giặc đến sôi sục:

“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan.

Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắng đuổi hươu

Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó”

Lòng yêu Tổ quốc tha thiết xuất phát từ trái tim đã khiên họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh… Dòng máu Lạc Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của lòng yêu nước mạnh hơn yếu hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, mặc việc “đợi tập rèn”, “ban võ nghệ”, “bày bố binh thư”, không màng tới trên mình chỉ có “một manh áo vải”. Các chàng Gióng của thế kỉ XIX đã đến, “đạp rào lướt tới”, coi giặc cũng như không.

Hỡi ôi, “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”, “rơm con cúi”, liệu có thể thắng được “tàu chiến tàu đồng”,” đạn nhỏ đạn to”. Đó là bi kịch của nghĩa sĩ Cần Giuộc hay chăng là tấn bi kịch của thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nông dân nhưng lại làm kinh ngạc cả chiến trường. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất lên trong tiếng nấc lòng. Có thể trận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ, nhưng tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lường, chênh lệch với kẻ thù

“Chi nhọc quan quản Gióng trống kì trống giục…. súng nổ”

Hình tượng của người nghĩa sĩ áo vải được khắc nổi trên cảnh u ám khói bom ấy: những âm thanh vang động (hè trước, ó sau…) những động tác quyết liệt (đốt, chém…). Những người nghĩa sĩ áo vải đã trở thành đấng anh hùng của một thời kì đáng nhớ. Trong tư thế quật cường ấy , lấp lánh chân dung của những con người gánh trên vai vận mệnh của non sông. Họ biết rằng mình chỉ là vô danh trong dân tộc anh hùng nhưng điều cao cả nhất họ để lại là triết lí sống phù hợp đến muôn đời:

“Thà thác mà đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà c chịu chữ đầu Tây ở với man di rất khổ”

Tinh thần ấy, ý chí ấy vẫn chói lòa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống để chịu nô lệ, tay sai của Tây thì thà một lần chiến đấu hết mình mà đem vinh quang cho dân tộc.

“Ôi thôi thôi!”

Một tiếng khóc đầy ai oán, tiếng khóc đến quặn lòng, tiếng khóc để tiễn biệt những người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. Họ ngã xuống nới chiến trường khói lửa. Vẫn còn đó nghiệp nước chưa thành, thấp thoáng nơi đây bóng mẹ già với ngọn đèn le lói trong đêm

“Đau đơn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu chạy tìm chống, cơn bóng xế dật dờ trứơc ngõ”

Người tử sĩ đã về chốn thiên cổ để lại giữa trần gian mẹ già, vợ yếu, con thơ… Mai đây họ sẽ ra sao khi cái nghèo vẫn còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả chưa xong..

“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo thương vì hai chữ thiên dân, cây hương nghĩa sĩ thắp đèn thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”

Nguyễn Đình Chiểu đã bằng tấm lòng đồng cảm để nhìn thấy, nghe thấy và dựng nên một tượng đài hoành tráng mà mộc mạc, yêu thương. Xuyên suốt trong nền văn học nước nhà hình ảnh người nông dân đã được đề cập khá nhiều lần. Nhưng trước Đồ Chiều thì chưa một ai công khai vẽ lên và ngợi ca hình ảnh người anh hùng “chẳng qua là dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Hơn thế nữa, việc thổi vào văn chương chất dân gian đã khiến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ trở thành áng văn vừa hào hùng, bi tráng mà cũng rất gần gũi, giản dị.

Cụ Đồ Chiểu chỉ là nhà thơ mù - “người hát rong của nhân dân”. Nhưng hình ảnh người nông dân khởi nghĩa trong bài văn tế đã cho ta cái nhìn về cả một thời đại. Tự hào thay những con người nhỏ bé nhưng vẫn hiên ngang trước thế lực bạo tàn. Tự hào thay những người dân, người lính, nghĩa sĩ vô danh trùng trùng điệp điệp ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn cho non sống. Họ là bức tượng đài bất tử, lưu mãi tới muôn đời.
=========================================
Ngòi bút, nghĩa là tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả thật là sinh động và não nùng, cảm tình của dân tộc đối với người chiến sĩ, vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước... Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca của người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang... ”
“ Trong văn chương chưa hề có một cái nhìn yêu thương và kính phục như vậy đối với người nông dân: Nhớ linh xưa: cui cút làm ăn - toan lo nghèo khó”, và ông viết: "Bao nhiêu yêu thương trong hai từ cui cút ấy”! Bởi "Nhà nho nghèo ấy đã sống cuộc sống của quần chúng, thông cảm sâu sắc với quần chúng, và đã cùng quần chúng phấn đấu gian nan. Chính quần chúng cần cù, dũng cảm đã tiếp sức cho Nguyễn Đình Chiểu, cho trí tuệ, cho tình cảm, cho lòng tin và cả cho nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu". ”
“ Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, nhân dân được ca ngợi như những người anh hùng.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là đỉnh cao nhất về nội dung và nghệ thuật trong sự nghiệp thơ văn của Nguyễn đình Chiểu...

“ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, là tác phẩm xúc động nhất về người anh hùng nông dân Nam Bộ. Đó là những người quanh năm nghèo khó, chưa từng cầm vũ khí, nhưng khi giặc đến thì xông lên chiến đấu quên mình, biểu thị tinh thần dũng mãnh bất khuất, tiêu biểu cho ý chí độc lập, tự do của dân tộc. Bài văn không chỉ là một thiên anh hùng ca đặc sắc, mà còn là lời bộc bạch gan ruột của những người dân không chịu làm nô lệ, thề đánh giặc đến cùng, là lời trách móc thâm trầm đối với thái độ đầu hàng...
Bởi vậy, khi bài văn tế này lan truyền đến Huế, chính vua Tự Đức đã ra lệnh phổ biến trong nhiều địa phương khác. Nhà thơ Miên Thẩm Tùng Thiện Vương và Mai Am nữ sĩ đã có thơ ca ngợi, là: “thư sinh giết giặc bằng ngòi bút” (Tùng Thiện Vương), là “Quốc ngữ một thiên truyền mãi mãi” ........
=========================================
Trong thời đó, Nguyễn Đình Chiểu là người sớm nhận thấy được khá rõ lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần chiến đấu của nông dân. Sau ông, trong một thời gian khá lâu, chưa mấy ai thấy được điều đó, kể cả Phan Bội Châu ( trong Hải ngoại huyết thư, Phan Bội Châu có kêu gọi tất cả các thành phần xã hội phải đoàn kết để mưu việc chống Pháp, nhưng ông đã quên thành phần cơ bản là nông dân). Cần đánh giá sự tiến bộ của Nguyễn Đình Chiểu.
Hình ảnh nghĩa quân trong bài :
- Nghĩa quân là những người nông dân suốt đời nghèo khổ, chỉ lo sao cho đủ bát cơm ăn, manh áo mặc ( côi cút làm ăn ... mắt chưa từng ngó ... ).
- Vì lòng yêu nước và lòng căm thù giặc cao độ, họ xung phong vào quân mộ nghĩa. Họ làm những việc anh hùng một cách tự nguyện, không suy tính đắn đo, họ đã khắc phục mọi khó khăn để đánh giặc.
( Bữa thấy bòng bong che trắng lốp
... chi nài sắm dao tu nón gõ ).
- Họ đã chiến đấu với tinh thần anh dũng tuyệt vời.
(Hoả mai đánh bằng rơm con cúi... Trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ).
- Họ đã hi sinh một cách bình thản, anh dũng. Lịch sử không thể không ghi chép về họ. Nhân dân vô cùng thương tiếc, kính mến họ (đoạn cuối).
- Gía trị hiện thực của bài văn: Tác giả có giúp ý kiến cho cuộc kháng chiến của Trương Định, thấu hiểu tình hình nghĩa quân, biết rõ những khó khăn về mọi mặt, mến phục tinh thần hi sinh, lòng yêu nước của họ, hiểu được thực tế chiến đấu của họ cũng như sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, nên bài văn này có giá trị hiện thực và lịch sử khá sâu sắc.
Những sự việc và hình ảnh nêu ra đều rất thực và rất cảm động.
-Với tư tưởng yêu nước, thương dân sâu sắc, những bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu lúc đương thời đã kích động rất nhiều nhân dân miền Nam đứng lên đánh giặc cứu nước . Ngày nay, đọc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ta vẫn như được thấy hình ảnh người bộ đội nông dân trong cách mạng, trong kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như trong cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống giặc Mĩ xâm lược để giành độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc
Admin
Admin
Nữ Vương [Admin]
Nữ Vương [Admin]

Tổng số bài gửi : 191
Join date : 13/08/2011

https://thienphuong.forumvi.com

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang


 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết